Thông tin bảo vật
Lý lịch
Lý lịch của bảo vật
Tấm bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc dựng ở lưng chừng một gò đất thấp tên gọi là gò Khuôn Khoai, thôn Làng Tạc, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Người đứng ra tạc bia, dựng chùa là Thái phó Hà Hưng Tông (có tài liệu nói tên là Hà Di Khánh) châu mục châu Vị Long (Hà Hưng Tông là đời thứ 15 của dòng họ Hà kế tục giữ chức Thái phó).
Vào thời Lý, cùng với việc thi hành nhiều chính sách nhằm củng cố quyền lợi của Nhà nước Trung ương tập quyền, tăng cường tổ chức quân đội với chế độ đăng ký quân dịch và chính sách "ngụ binh ư nông", nhà Lý thi hành nhiều biện pháp tích cực góp phần củng cố khối đoàn kết dân tộc và bảo vệ quốc gia thống nhất. Nhà Lý đặc biệt quan tâm đến vùng biên ải phía Bắc của Tổ quốc - nơi có vị trí chiến lược trọng yếu trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phong kiến phương Bắc. Các tù trưởng thiểu số có thế lực rất lớn và thực sự nắm quyền quản lý cư dân thuộc tộc mình. Cùng với chính sách chinh phạt để uy hiếp, nhà Lý đã khôn khéo dùng chính sách nhu viễn để thu phục, tranh thủ các tù trưởng để qua họ, thắt chặt khối đoàn kết dân tộc và mở rộng ảnh hưởng của triều đình lên miền núi. Trong chính sách nhu viễn, nhà Lý gả các công chúa cho một số tù trưởng có thanh thế, lấy tinh thần gia tộc để ràng buộc họ. Trong số các tù trưởng miền núi trở thành phò mã của nhà Lý có tù trưởng họ Hà ở châu Vị Long.
Theo văn bia, cao tổ của dòng họ Hà ở châu Vị Long là Hà Đắc Trọng quê ở xóm Ca Nông, hương Thạch Bách, huyện Hà, thuộc Đông Đô, châu Ung (nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), sang châu Vị Long sinh sống, được người đời tôn trưởng do có công giữ gìn an toàn cho vùng đất và giúp dân ấm no. Trải qua các đời, dòng họ Hà được vua giao cho những trọng trách quan trọng, đến đời ông của Hà Hưng Tông được Thái tổ Hoàng đế (vua Lý Công Uẩn) gả công chúa thứ ba cho nhằm lấy tinh thần gia tộc để ràng buộc, thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh (1075) nhân việc vua Lý Nhân Tông lên nối ngôi còn nhỏ tuổi (lên ngôi từ năm 1072 khi mới 7 tuổi), nhà Tống gấp rút tập trung binh mã tại các trấn thành biên giới phía Bắc, chuẩn bị xây dựng thành quách, trung tâm là thành Ung Châu rắp tâm thôn tính nước ta lần thứ 2. Với tư tưởng tiến công để tự vệ "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc", nhà Lý đã ủy quyền cho Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt thống lĩnh hơn 10 vạn quân, chia làm hai đạo thủy bộ tấn công vào cửa biển Khâm Châu - Liêm Châu và thành Ung Châu. Cùng với quân lính các dân tộc thiểu số do các Tù trưởng khác, binh mã châu Vị Long do thân phụ của Thái phó Hà Hưng Tông chỉ huy đóng vai trò quan trọng trong đạo quân này. Sau khi chiếm được thành Ung Châu, tiêu diệt lực lượng địch, tiêu hủy các kho tàng lương thực, "bắt tướng võ, dâng tù binh", thân phụ Thái phó Hà Hưng Tông được vua ban chức "Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ". Cùng với tài cao, ông còn là người có đức lớn, một lòng thương dân, khuyến khích dân chúng phát triển nông nghiệp "Cày cấy theo phép tỉnh điền", thu thuế của dân rất nhẹ (100 mẫu phải nộp thuế 10 mẫu). Vì vậy châu Vị Long dân chúng đều ấm no "thóc lúa ùn ùn như núi, khách khứa 3 nghìn đông đúc, nhà cửa nhộn nhịp phố phường".
Nhờ công lao của cha, năm Đinh Tỵ niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thống (1077), khi Hà Hưng Tông lên 9 tuổi, vua Lý Nhân Tông mời về kinh đô "kết bạn em vua", vì Thái phó còn nhỏ tuổi nên xin được về nấp bóng cha mẹ. Tháng giêng năm Mậu Ngọ (1078), nhà vua sai quan Nội phụ văn tư lang trung Kiểm Nghĩa mang thánh chỉ đến châu Vị Long đón Hà Hưng Tông về kinh đô kết duyên với công chúa Khâm Thánh và phong cho chức Tả đại liêu ban. Năm Thái phó Hà Hưng Tông (Việt Sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép là châu mục châu Vị Long Hà Di Khánh) lên 14 tuổi (năm Nhâm Tuất 1082) vua cho tổ chức tiệc mừng long trọng, Thái phó sắm đủ lễ đón dâu.
Năm Ất sửu niên hiệu Quảng Hựu (1085), cha mẹ Thái phó đều mất. Đến năm Bính dần (1086), vua ban cho Thái phó được nối chức cha, vẫn giữ chức cũ là Tả đại liêu ban, lại kiêm thêm Tri châu Vị Long, giữ tiết độ sứ, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó. Đồng thời được hưởng thực ấp 3900 hộ, thực phong 900 hộ.
Được nhà vua ban chức tước, gia đạo đề huề, dân bản ấm no, đất nước thanh bình, để tỏ chữ hiếu với tổ tiên, lòng ham đạo phật, Thái phó Hà Hưng Tông đã chọn nơi đất tốt, thợ giỏi để xây chùa Bảo Ninh Sùng Phúc với quy mô bề thế để mọi người tâm thanh lòng tịnh đến nguyện cầu mọi điều may mắn tốt lành.
Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc được xây dựng rất bề thế, trong đợt nghiên cứu, khảo sát đợt điều tra khảo sát khảo cổ học tháng 10 năm 2005 đã tìm thấy móng bậc lan can lên xuống phía Tây có hình tam giác, độ dốc chênh lệch từ đầu bậc đến cuối bậc là 38cm và móng lan can bậc lên xuống phía Đông với hai hàng đá cuội kích thước lớn xếp chồng lên nhau, chiều dài còn lại là 1,10m và móng cửa ra vào của chùa với chiều dài 1,63m. Tuy chưa xác định được chiều dài, rộng của chùa, nhưng căn cứ vào độ dài của móng cửa ra vào và những mảnh ngói thời Lý còn tìm thấy có kích thước lớn, dầy, nặng có thể khẳng định đây là kiến trúc có quy mô khá lớn.
Chùa được dựng tại đồi có rừng mây và thông (bia chùa còn ghi rõ "Phát xén rừng mây, hoa thông xanh tốt"). Chùa được làm bằng cột gỗ khai thác ngay tại địa phương. Có thể cột dựng chùa được dựng bằng cột gỗ sam, tục được gọi là "Ngọc Am", tên gọi trong nhân dân là the mốc- đây là gỗ của cây thông già đã bị chôn lâu năm dưới đất, bùn do bị lở núi, một thứ gỗ rất thơm và quí. Ngôi chùa còn tồn tại vào thời Nguyễn vẫn được sử dụng khung bằng loại gỗ này, khi chùa đổ nhân dân mang về sử dụng. Hiện nay còn một cây kèo được người dân mang về trả lại khu vực chùa. Chân cột được kê bằng đá ráp màu nâu xám hình vuông mỗi chiều 60cm. Trong số 4 chân tảng còn tìm thấy ở khu vực chùa có chân tảng chạm cánh sen tiêu biểu cho kiến trúc thời Lý.
Chùa được lợp bằng ngói mũi. Nền nhà, sàn, bậc thềm, đường đi của chùa Bảo Ninh Sùng Phúc được lát bằng gạch dài 40cm, rộng 22cm, dày 6cm. Tháp đất nung còn tìm thấy ở khu vực chùa là hiện vật đặc trưng của nền mỹ thuật thời Lý. Những mảnh tháp còn tìm thấy ở chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là những mảnh của phần đáy tháp được trang trí bằng hoa văn hình cánh sen, các rãnh tạo hoa văn sâu và hoa văn hình hoa chanh bốn cánh, được khắc nổi, mỗi cánh chanh được lồng vào một ô vuông.
Cùng với việc xây dựng chùa, bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc đã được tạc để ghi lại giáo lý đạo Phật và công đức của dòng họ Hà. Người soạn bia theo lệnh Hà Hưng Tông là Lý Thừa Ân, ông sống dưới hai triều Lý Nhân Tông (1072-1127) và Lý Thần Tông (1128-1137). Ông làm quan tới chức Triều thỉnh đại phu, đông thượng cáp môn hậu… thượng thư viên ngoại lang, tử tử kiêm ngư đại.
* Ghi chú: Tại chùa Bảo Ninh Sùng Phúc hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật tiêu biểu trải qua các thời từ thời Lý, thời Lê đến thời Nguyễn như:
- Hiện vật tiêu biểu thời Lý: Bia đá chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, mảnh ngói mũi, mảnh ngói bò, gạch lát nền, đá tảng kê chân cột, mảnh tháp.
- Hiện vật tiêu biểu thời Lê: Mảnh kìm hình đầu rồng, mảnh diềm mái kiến trúc hình răng cưa, mảnh diềm mái hình lá đề, mảnh lá lam đằng ở đầu đao, mảnh gốm trắng trang trí sóng nước hình vảy cá, mảnh gốm hoa lam.
- Hiện vật thời Nguyễn: Mảnh lư hương Phù Lãng, vì kèo của chùa.
Giá trị tiêu biểu
- Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là hiện vật gốc độc bản; thời Lý, có niên đại năm 1007.
- Bia Bảo Ninh Sùng Phúc đạt tiêu chí là hiện vật có giá trị lịch sử trên các phương diện sau:
Về mặt lịch sử: Những sự kiện được ghi lại trên bia đá liên qua tới nhân vật lịch sử Thái phó Hà Hưng Tông là người có công trong việc dựng bia và có tên trong sử sách. Thông qua các mối quan hệ của dòng họ này với triều đình nhà Lý có thể thấy được những sự kiện quan trọng trong chính sách đối nội của triều Lý đối với vùng biên giới. Các vua thời Lý đã gả công chúa cho châu mục người dân tộc thiểu số, phong chức tước, kết làm anh em... để thu phục họ. Ràng buộc bằng danh lợi và hôn nhân là biện pháp chính trị khôn khéo giúp triều đình nhà Lý củng cố chính quyền quân chủ Đại Việt ở các vùng biên ải xa xôi. Nhờ vậy, trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc, các châu mục miền núi như châu mục Vị Long đã tham gia và góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Sự kiện dựng chùa thờ Phật - quốc giáo của nước Đại Việt thời Lý, tại một nơi xa xôi hẻo lánh như châu Vị Long cũng chứng tỏ rằng dưới triều Lý, kinh tế miền núi phát triển mạnh. Đồng thời, sự giao lưu văn hoá với miền xuôi cũng được chính quyền đương thời quan tâm. Người đại diện cho chính quyền là dòng họ Hà, suốt 15 đời làm châu mục châu Vị Long, dòng họ này đã có nhiều công lao trong việc giữ vững an ninh và xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá ở một vùng đất rừng núi giáp biên giới, nơi triều đình nhà Lý khó kiểm soát. Điều này cũng thể hiện nhà Lý đã thành công trong việc tập hợp khối đoàn kết dân tộc trong chiến đấu bảo vệ cũng như xây dựng tổ quốc.
Bia đá cũng là nguồn tư liệu quý giá đối với việc nghiên cứu các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội... của mảnh đất Tuyên Quang nói riêng và Việt Nam nói chung dưới chế độ phong kiến tập quyền.
Về mặt tôn giáo, tín ngưỡng, bia Bảo Ninh Sùng Phúc chứng minh sự giao lưu văn hoá rộng rãi giữa miền núi với miền xuôi. Đồng thời cũng cho thấy địa vị độc tôn và sự phát triển rộng khắp của Phật giáo triều Lý.
Về giá trị nghệ thuật: Bia đá chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là một tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao. Bia đá giúp các nhà nghiên cứu so sánh, đối chiếu và khẳng định thêm về trình độ sáng tạo, quan niệm thẩm mỹ tinh tế trong xây dựng kiến trúc, trang trí, tạo hình Đại Việt. Minh văn còn là một di sản văn học quý báu. Với hơn một ngàn một trăm chữ, văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc do Lý Thừa Ân biên soạn là một tác phẩm văn học hay, cô đọng, súc tích, bay bướm, thể hiện rõ văn phong đặc trưng của thời Lý.
Các di tích của đời Lý, một triều đại quân chủ hưng thịnh vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam còn lại trên cả nước không nhiều trên cả nước và hầu hết tập trung ở miền đồng bằng. Trong bối cảnh đó, có thể nói bia đá Bảo Ninh Sùng Phúc là một trong những tấm bia đầu tiên của triều Lý được tìm thấy ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Chùa và bia Bảo Ninh Sùng Phúc được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia theo Quyết định số 95-QĐ/BVHTT ngày 24 tháng 01 năm 1998 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Tập tài liệu liên quan